Tầm soát ung thư tuyến tiền liệt giúp nam giới phát hiện khối u ngay từ khi còn nhỏ, điều trị dễ dàng và dứt điểm, tỷ lệ sống cao.
Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Vũ Lê Chuyên, Giám đốc Trung tâm Thận tiết niệu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, ung thư tuyến tiền liệt là một trong những bệnh lý thường gặp ở nam giới. Tần suất của bệnh tăng lên sau mỗi thập kỷ. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, ung thư tuyến tiền liệt chiếm 15-60% nam giới trong độ tuổi 60-90. Tỷ lệ nam giới trên 65 tuổi mắc bệnh ung thư là 75%. Nguy cơ cao nhất là ở những người đàn ông da đen.
Tuy nhiên, PGS.TS Vũ Lê Chuyên lại chia sẻ một điều trái ngược, đó là nếu ung thư tuyến tiền liệt khó chẩn đoán thì dễ điều trị, còn ung thư dễ chẩn đoán thì rất khó điều trị. Có 3 nhóm nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt: thấp, trung bình và cao. Một số tác giả phân loại thêm 2 nhóm là rất thấp và rất cao. Đối với nhóm nguy cơ thấp, bệnh mới phát hiện, ung thư còn nhỏ nên bác sĩ dễ dàng điều trị tận gốc, triệt để. Bệnh nhân có thể sống cuộc sống hoàn toàn bình thường với tỷ lệ 80-90% và chết vì các bệnh khác chứ không phải ung thư tuyến tiền liệt.
Ở nhóm nguy cơ cao, bệnh nhân được phát hiện có khối u di căn, xâm lấn trực tràng và xương. Kết quả xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu cho tuyến tiền liệt (PSA) cao có thể lên tới 100, điểm Gleason là 10. Các triệu chứng càng rõ rệt thì tình trạng bệnh càng nghiêm trọng. Việc điều trị vì thế sẽ trở nên khó khăn hơn, thời gian sống của người bệnh cũng rút ngắn lại.
Vì vậy, việc tầm soát sớm có giá trị quyết định trong quá trình điều trị của bệnh nhân. Cứ tám người đàn ông thì có một người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt vào một thời điểm nào đó trong đời, và tỷ lệ tử vong là 1/4. Đây là kết quả của việc điều trị, đặc biệt là trong giai đoạn đầu. Kiểm tra định kỳ giúp bác sĩ phát hiện nhiều trường hợp ung thư tuyến tiền liệt trước khi nó di căn.
PGS.TS Vũ Lê Chuyên cho biết, hiện chưa có xét nghiệm nào được coi là tiêu chuẩn trong tầm soát ung thư tuyến tiền liệt. Thông thường, bác sĩ tiết niệu sẽ yêu cầu xét nghiệm để đánh giá mức độ kháng nguyên tuyến tiền liệt (PSA). Theo quy luật, mức PSA trong máu càng cao thì nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt của đàn ông càng cao. Nồng độ PSA dễ tăng cao do tác dụng phụ của thuốc, phì đại tuyến tiền liệt hoặc nhiễm trùng, quan hệ tình dục … Nếu kết quả PSA bất thường, bác sĩ có thể yêu cầu sinh thiết tuyến tiền liệt để xác định nguy cơ ung thư.
Một phương pháp kiểm tra phổ biến khác là khám trực tràng bằng tay (DRE). Bác sĩ đánh giá cấu trúc tuyến tiền liệt qua thành trực tràng để tìm các dấu hiệu của ung thư như độ rắn chắc, cục u… Thang điểm Gleason cũng được áp dụng để tầm soát ung thư tuyến tiền liệt. Điểm Gleason càng thấp thì nguy cơ ung thư càng thấp, ít tiến triển và tiên lượng tốt hơn.
Bệnh ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển âm thầm, ít khi biểu hiện triệu chứng cụ thể. Ở giai đoạn nặng, người bệnh thường có những dấu hiệu mơ hồ, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác như tiểu máu, bàng quang đầy, tiểu gấp, dòng nước tiểu yếu, dòng nước tiểu không hoàn toàn, cuối cùng là tiểu buốt. … Cho đến khi có các triệu chứng đau nhức xương, gãy xương, chèn ép tủy sống, tế bào ung thư đã di căn đến xương chậu, cột sống, xương sườn …
Không dễ dàng dự đoán khối u nào sẽ phát triển, tốc độ lây lan nhanh hay chậm. Vì vậy, nam giới nên trao đổi với bác sĩ về ưu nhược điểm của các phương pháp tầm soát dựa trên các yếu tố như tuổi tác, tình trạng sức khỏe, nguy cơ mắc ung thư tuyến tiền liệt …
Với sự tiến bộ của y học, ngày nay nhiều nam giới được tầm soát và phát hiện sớm, giúp việc điều trị ung thư tuyến tiền liệt đạt hiệu quả cao. Việc tầm soát nên được thực hiện hàng năm ở nam giới trên 50 tuổi và có thể bắt đầu ở tuổi 45 đối với nam giới có nguy cơ cao như tiền sử gia đình bị ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư trực tràng. Về phía phụ nữ mắc bệnh ung thư vú, PGS.TS Vũ Lê Chuyên nhấn mạnh.
Hàn Thái